Trở lại trang ch�nh của Website Thi�n L� Bửu T�a

LỊCH SỬ ĐẠO CAO Đ�I THỜI KỲ TIỀM ẨN 1920-1926

L� ANH DŨNG

CHƯƠNG I

ĐẤT NAM KỲ TRƯỚC KHI CAO Đ�I XUẤT THẾ

I. NGUỒN GỐC T�N NAM KỲ LỤC TỈNH

Nghi�n cứu lịch sử một t�n ngưỡng kh�ng thể t�ch rời lịch sử của đất nước đ� l� c�i n�i của nền t�n ngưỡng đ�. Lịch sử khai đạo Cao Đ�i khởi nguy�n trong thập ni�n 20 của thế kỷ XX, tại miền Nam, l�c ấy c�n được gọi l� Nam Kỳ, Nam Kỳ Lục Tỉnh, Lục Tỉnh, v� Lục Ch�u. Bối cảnh lịch sử miền Nam hay l� một c�i nh�n tổng qu�t về t�nh h�nh kinh tế, ch�nh trị, văn h�a, x� hội của miền Nam ở đầu thế kỷ XX rất cần thiết cho việc t�m hiểu lịch sử Cao Đ�i, cũng như sẽ �hiểu th�m tại sao miền Nam c� v�i sắc th�i t�n gi�o m� ngo�i Bắc ngo�i Trung kh�ng c�...� [1]

Theo �ại Nam nhất thống ch� của Quốc sử qu�n triều Nguyễn, v�o năm Mậu Dần (1698) ch�a Nguyễn Ph�c Chu cho lập phủ Gia Định. Năm Nh�m Tuất (1802) vua Gia Long đổi phủ Gia Định th�nh trấn Gia Định; đến năm Mậu Th�n (1808) đổi t�n trấn Gia Định ra th�nh Gia Định gồm năm trấn l� Phi�n An, Bi�n H�a, Định Tường, Vĩnh Thanh, H� Ti�n.

Năm Minh Mạng thứ 13 (Nh�m Th�n, 1832) vua Minh Mạng đổi t�n th�nh Gia Định ra th�nh Phi�n An, năm trấn chia th�nh s�u tỉnh Phi�n An, Bi�n H�a, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, H� Ti�n. Như vậy t�n Lục Tỉnh đ� c� từ năm 1832. Hai năm sau (Gi�p Ngọ, 1834), Lục Tỉnh được gọi chung l� Nam Kỳ. Năm 1835, tỉnh Phi�n An đổi t�n l� tỉnh Gia Định. [2]

Sau khi chiếm xong ba tỉnh miền Đ�ng gồm Gia Định, Định Tường, Bi�n H�a (1862) v� ba tỉnh miền T�y gồm Vĩnh Long, An Giang, H� Ti�n (1867), thực d�n Ph�p x�a bỏ c�ch ph�n chia địa giới h�nh ch�nh cũ của triều Nguyễn.

L�c đầu Ph�p gọi d�partement thay cho phủ, gọi arrondissement thay cho huyện.[3] Khoảng năm 1868, Nam Kỳ Lục Tỉnh c� hơn hai mươi arrondissement (gọi l� hạt hay địa hạt, do tham biện cai trị, dinh h�nh ch�nh gọi l� t�a tham biện, chịu dưới quyền thống đốc đ�ng ở S�i G�n, thư k� địa hạt cũng gọi l� bang biện tức l� secr�taire d�arrondissement).

Nghị định ng�y 07-6-1871 thu hẹp lại c�n mười t�m hạt; rồi tăng l�n mười ch�n (1876); tăng l�n hai mươi (1880); bỏ hạt hai mươi (1881); rồi lại lập th�m hạt Bạc Li�u (1882) v� hạt Cap Saint Jacques (1895) th�nh hai mươi mốt arrondissement.

Nghị định ng�y 16-01-1899 đổi t�n hạt th�nh tỉnh (province), tham biện đổi th�nh chủ tỉnh (chef de province), t�a tham biện gọi l� t�a bố.

II. LỤC TỈNH CHIA RA HAI MƯƠI MỐT TỈNH

V�i chục năm sau mới chia tỉnh ra quận (d�l�gation) dưới quyền chủ quận; quận chia ra tổng (canton), đứng đầu l� cai tổng (chef de canton). Tổng chia th�nh x�. [4]

Do c� thay đổi t�n theo Nghị định 1899, d�n Nam Kỳ thời trước c�n gọi vi�n chức đầu tỉnh l� quan tham biện chủ tỉnh; người th�ng ng�n cho chủ tỉnh được gọi l� th�ng ng�n đứng b�n �ng ch�nh.[5] Như vậy, do Nghị định đ�, từ năm Kỷ Hợi (1899), Lục Tỉnh của Nam Kỳ chia th�nh hai mươi mốt tỉnh như sau:

- Gia Định chia th�nh năm tỉnh: Gia Định, Chợ Lớn, T�n An, T�y Ninh, G� C�ng.

- Bi�n Ho� chia th�nh bốn tỉnh: Bi�n Ho�, B� Rịa, Thủ Dầu Một, Cap Saint Jacques (tức Vũng T�u).

- Định Tường đổi th�nh Mỹ Tho.

- Vĩnh Long chia th�nh ba tỉnh: Vĩnh Long, Bến Tre, Tr� Vinh.

- An Giang chia th�nh năm tỉnh: Ch�u Đốc, Long Xuy�n, Sa Đ�c, S�c Trăng, Cần Thơ.

- H� Ti�n chia th�nh ba tỉnh: H� Ti�n, Rạch Gi�, Bạc Li�u.

Chia lại đất Nam Kỳ th�nh hai mươi mốt tỉnh,[6] c� lẽ thực d�n Ph�p muốn x�a nh�a hai chữ Lục Tỉnh trong l�ng người Việt, cũng l� c�ch cắt đứt l�ng lưu luyến với truyền thống, một thủ đoạn t�m l� b�n cạnh c�c cuộc đ�n �p những phong tr�o y�u nước kh�ng chiến. Nhưng d�n Nam Kỳ vẫn ho�i vọng Lục Tỉnh. N�n m�i đến năm Mậu Th�n (1908) tr�n tờ b�o Lục Tỉnh t�n văn do �ng Gilbert Trần Ch�nh Chiếu l�m chủ b�t, vẫn xuất hiện thường xuy�n t�n Lục Tỉnh, Lục Ch�u. M�a Thu năm B�nh Dần (1926), khi khởi đầu c�ng cuộc phổ độ ở miền Nam, c�c vị tiền bối khai đạo Cao Đ�i đ� gọi đ� l� cuộc phổ độ Lục Tỉnh. M�i đến thập ni�n 50 v� 60, ở miền Nam cũng c�n n�i, nhắc đến hai chữ xa xưa n�y.

Ph�p c�n giữ lại hai chữ Nam Kỳ, gọi l� Cochinchine, ph�n biệt với Bắc Kỳ l� Tonkin, Trung Kỳ l� Annam. Người Anh, Mỹ cũng gọi Nam Kỳ l� Cochinchina. Giới học giả trong v� ngo�i nước từng đưa ra nhiều c�ch l� giải kh�c nhau về xuất xứ t�n gọi Cochinchine, nhưng vẫn chưa ng� ngũ.[7]

Bản đồ h�nh ch�nh Nam Kỳ Lục Tỉnh (1836)

Bản đồ h�nh ch�nh Nam Kỳ thuộc Ph�p

III. V�I THUẬT NGỮ H�NH CH�NH Ở NAM KỲ THỜI PH�P CHIẾM

1. Thống đốc v� thanh tra

Đ�ng đầu bộ m�y h�nh ch�nh Nam Kỳ thời Ph�p chiếm l� Thống đốc Nam Kỳ (Gouverneur de la Cochinchine). Vi�n chức n�y do To�n quyền Đ�ng Ph�p, tức Đ�ng Dương thuộc Ph�p, giới thiệu v� được Tổng trưởng Thuộc địa bổ nhiệm.

To�n quyền c�n cử th�m một vi�n chức lưu động, h�ng năm thanh tra c�c tỉnh một lần v� b�o c�o cho Thống đốc. Đ� l� Thanh tra Ch�nh trị v� H�nh ch�nh Sự vụ (Inspecteur des affaires politiques et administratives).

C�c thanh tra n�y dĩ nhi�n chỉ phục vụ cho quyền lợi của thực d�n Ph�p, cho n�n mọi ph�c tr�nh của họ về t�nh h�nh Nam Kỳ đều đi ngược lại với lợi �ch của d�n Việt Nam. Lấy th� dụ, Thanh tra Lalaurette trong ph�c tr�nh ng�y 01-01-1932, d�i hai mươi bốn trang đ�nh m�y khổ 21x33cm, khi tr�nh b�y về �Le Caoda�sme� đ� d�ng nhiều lời lẽ thiếu tử tế, đứng đắn. Người nghi�n cứu đạo Cao Đ�i cần hiểu r� kh�a cạnh n�y để hiểu r� v� sao năm 1970, khi cho khởi đăng chuy�n khảo �An Introduction to Caodaism� tr�n tạp ch� The Bulletin of the School of Oriental and African Studies (BSOAS), của Viện đại học London, Gi�o sư Ralph Bernard Smith cảnh gi�c mọi người h�y cẩn thận khi đọc những g� li�n quan đến đạo Cao Đ�i được viết ra do những nh� ch�nh trị thực d�n, v� Gi�o sư Smith gọi c�i �c thiếu v� tư, thiếu trung thực của họ l� �the cynicism of political observers[BSOAS, Vol. XXXIII, Part 2, London: 1970, p. 335.]

2. So�i phủ

Trụ sở của Thống đốc đặt tại S�i G�n (về sau gọi l� Dinh Gia Long). Người miền Nam quen gọi l� So�i phủ Nam Kỳ (Gouvernement des Amiraux), v� cho tới năm 1878 n� c�n l� dinh của một quan v� Ph�p, h�m Lieutenant-Gouverneur, tức Ph� so�i. Kể từ năm 1879 mới thay quan v� bằng quan văn, v� Thống đốc Nam Kỳ (d�n sự) đầu ti�n l� Le Myre de Vilers. M�i đến năm 1926, khi gọi Quyền Thống đốc Le Fol, người Nam Kỳ vẫn c�n quen miệng k�u lẫn lộn l� Thống so�i, Ph� so�i, d� �ng kh�ng phải l� sĩ quan.

So�i phủ Nam Kỳ (ảnh t�i liệu)

3. Chủ tỉnh, chủ quận, tri phủ, tri huyện

Tỉnh ở Nam Kỳ chia th�nh nhiều quận, đứng đầu l� chủ quận. Trong khi đ�, ở Bắc Kỳ, tỉnh chia th�nh nhiều phủ, đứng đầu l� tri phủ; phủ chia th�nh nhiều huyện, đứng đầu l� tri huyện.

Ở Nam Kỳ, quận chia th�nh nhiều tổng, đứng đầu l� cai tổng (chef de canton). Tổng chia th�nh nhiều l�ng.

Chủ tỉnh l� người Ph�p. Do Nghị định ng�y 15-02-1898, chủ quận được tuyển trong số vi�n chức h�nh ch�nh người Việt n�o đ� c� ngạch huyện, phủ, đốc phủ sứ. Cho n�n tri huyện, tri phủ ở Nam Kỳ chỉ l� ngạch trật về h�nh ch�nh, kh�ng phải l� quan chức như ở Bắc Kỳ v� Trung Kỳ , mặc d� người miền Nam quen gọi chủ quận l� quan phủ, quan huyện. Những vi�n chức người Việt n�y xuất th�n l� thơ k�, c� thể c� một �t vốn chữ Nho, học ở trường l�ng trước khi v�o học chương tr�nh Ph�p ở Coll�ge de Mỹ Tho (nay l� trường Nguyễn Đ�nh Chiểu) v� trường Bổn quốc ở S�i G�n, tức l� Lyc�e Chasseloup Laubat, sau đổi t�n th�nh Jean Jacques Rousseau (nay l� trường L� Qu� Đ�n). Phần lớn c�c bậc tiền bối c� c�ng khai đạo Cao Đ�i đ� xuất th�n từ hai trường học n�y, Hai trường trung học lớn kh�c l� P�trus K� ở S�i G�n v� Coll�ge de Cần Thơ.

IV. V�I ĐẶC ĐIỂM Đ�NG CH� � Ở NAM KỲ

1. Số d�n

Đầu thế kỷ XX, S�i G�n v� Chợ Lớn l� hai khu vực ri�ng biệt . Ri�ng S�i G�n rộng chừng 780 mẫu t�y.

Số d�n to�n Nam Kỳ (từ 15 tuổi trở l�n) năm 1905 l� 2.876.417; năm 1909 l� 2.975.838. Số d�n tăng l�n v� c� nhiều người từ Bắc, Trung Kỳ, Quảng Đ�ng, Phước Kiến v�o miền Nam l�m ăn.[8] Cho đến năm 1920, số d�n Nam Kỳ ước độ 3.600.000, v� ri�ng số người Việt ở v�ng S�i G�n (kh�ng kể Chợ Lớn) v�o năm 1921 l� 308.512 người.[9]

2. Bộ mặt chung của S�i G�n

S�i G�n đến thế kỷ XX chưa liệt v�o �H�n ngọc Viễn Đ�ng�. Trong Bến Ngh� xưa, Sơn Nam mi�u tả: ��nh đ�n điện chỉ rọi s�ng khu trung t�m th�nh phố. Ph�a ngoại � từ rạch Thị Ngh� đi B� Chiểu, nh� cửa thưa thớt, ban đ�m tối om.� Nhiều tin đồn ma quỷhiện ở Cầu B�ng, v� khu Lăng �ng B� Chiểu. Tại Thủ Đức, H�c M�n c�n c� cọp xuất hiện (tr.145 - 6).

Chợ Bến Th�nh năm 1911 chưa c�, �ba năm sau (1914) th� cất xong nhưng trước mặt c�n ao vũng s�nh lầy. Giữa S�i G�n v� Chợ Lớn ph�a đất thấp, chưa c� dự kiến n�n nối liền, c�n ruộng l�a với người c�y, ao nu�i vịt, ngọn rạch cạn, đợi đến năm 1916 mới bắt đầu đắp đường, trải đ� ong ...� (Đ� l� đường Galli�ni, nay l� Trần Hưng Đạo.)

�Xe lửa nối liền ra ngoại � c�n d�ng hơi nước đến 1913 mới cải tiến chạy bằng sức điện.� (tr.146)

Tr�n đường Paul Blanchy (nay l� Hai B� Trưng), ph�a sau Nh� h�t lớn đ� c� nh� đ�n, lập từ cuối thế kỷ XIX. Về sau n� được �dời về Chợ Qu�n với quy m� to hơn, chạy hơi nước. Năm 1909, S�i G�n v� Chợ Lớn thiết bị tạm xong hệ thống đ�n điện ở ngo�i đường.� (tr.146)

�Về mặt h�nh ch�nh, đ� th�nh S�i G�n lần lần nới rộng, bao gồm v�ng b�n n�y Cầu B�ng, T�n Định, rồi Kh�nh Hội, Ch�nh Hưng. Diện t�ch th�nh phố S�i G�n (kh�ng c� Chợ Lớn) v�o năm 1907 l� 1.674 h�c-ta. Tuy th�m nh� cửa, dinh thự nhưng khu vực n�o nhiệt vẫn chưa ph�t triển ra khỏi... [đường L� Văn Duyệt; thời Ph�p l� đường Verdun], đường Nguyễn Th�i Học. Giữa S�i G�n v� ở phần đất cao c�n nhiều ch�m tre, c�y da, mồ mả to xen v�o những đ�m rẫy trồng rau cải v� b�ng hoa, những x�m nh� ổ chuột; bầy b� d� đi lang thang ăn cỏ. Phương tiện x� dịch th�ng dụng l� xe kiếng khi đổ mưa; người đ�nh xe mặc �o tơi bằng l� giống như �o tơi của n�ng d�n vậy th�i. Chở chuy�n h�ng h�a th� d�ng xe b�.� (tr.147)

3. T�n ngưỡng

Theo Sơn Nam, �Việc thờ phượng Quan C�ng, thờ Phật, việc tin tưởng v�o chư ti�n chư th�nh đ� c� sẵn từ l�u ở miền Nam...� [10] Nhận x�t về �giới b�nh d�n đ�ng đảo ở n�ng th�n v� lớp ngh�o th�nh thị�, Sơn Nam thấy rằng họ đ� �x�y dựng một nếp sống tinh thần kh� ấm �p, b�nh đẳng, lấy t�nh nghĩa huynh đệ l�m trọng, sống chết c� nhau, giữ trung cang nghĩa kh� l�c kh� khăn, hiếu động. Đ�ng l� nếp sống tinh thần kết tinh đạo Phật, L�o, Khổng.� [11]

Những nhận x�t n�y cho thấy trước khi đạo Cao Đ�i xuất thế, ở Nam Kỳ đ� c� sẵn mảnh đất tốt cho một t�n ngưỡng tổng hợp Tam gi�o ph�t triển. Điều n�y giải th�ch v� sao khi đạo Cao Đ�i phổ độ Lục Tỉnh, số t�n đồ quy tụ rất mau lẹ v� đ�ng đảo, khiến thực d�n Ph�p hết sức lo ngại.

4. C�ch ăn mặc

�Trừ một số �t được theo T�y học, l�m c�ng chức (từ thơ k� thi tuyển l�n huyện, phủ) ưa mặc �u phục c�n đại đa số (lu�n cả người theo T�y học) th�ch xuất hi�n, ăn tiệc, chụp ảnh với c�i khăn đ�ng, �o d�i đen, quần trắng, đi gi�y h�m ếch, tay chống ba-ton, để r�u tr�i ấu vuốt s�p; giới quan quyền mặc �o d�i lụa xanh th�u chữ thọ, mang gi�y da buộc d�y.� [12] Ai theo thời mới th� �mặc �u phục, đội n�n T�y, thắt nơ, r�u vuốt s�p, t�c ngắn.� [13] B�n cạnh đ�, �c�ng chức hạng ngh�o thuở ấy mặc �o d�i đen.� C�n những người thuộc giới c�ng nh�n v� lao động chịu hớt t�c ngắn, nhưng c�n giữ b�i t�c, bịt khăn đầu r�u hoặc ở trần, đi ch�n đất kh�ng phải �t.� [14]

5. T�m l� quần ch�ng

Nhận x�t t�m l� quần ch�ng ở Nam Kỳ dưới chế độ khắc nghiệt của thực d�n Ph�p, tuần b�o Lục Tỉnh t�n văn số 16, ng�y 01-10-1908 viết: �T�nh người An Nam m�nh hay sợ sệt lắm...� Do đ�, khi chủ xướng những c�ng cuộc lớn lao, muốn vận động, thu h�t quần ch�ng, trong th�nh phần nh�n sự nồng cốt bao giờ cũng cần c� c�c c�ng chức. Sơn Nam n�u ra l� do l� d�n ch�ng �tin rằng c�ng chức lu�n lu�n đ�ng ho�ng, kh�ng l�m quốc sự.� Ngay cả trong chuyện kinh doanh, điều n�y vẫn đ�ng, cho n�n số b�o n�i tr�n viết rằng trong thương mại �hễ c� c�c �ng nha m�n ra l�m đầu th� đ�u đ�u ai cũng xin v� h�n.� [15]

T�m hiểu thời kỳ khai nguy�n đạo Cao Đ�i n�n lưu � yếu tố t�m l� n�y. Trong số c�c vị m�n đồ của buổi đầu khai sơn ph� thạch, c� đủ th�nh phần: n�ng d�n, nh� tu xuất gia, cư sĩ, nghệ sĩ, nh� gi�o, nh� bu�n... v� một con số kh�ng �t gồm c�c c�ng chức. C�c c�ng chức n�y đ� g�p phần trong việc thu h�t đ�ng đảo d�n ch�ng nhập m�n đạo Cao Đ�i, nhất l� khi tư c�ch của những vị ấy g�y được uy t�n với d�n ch�ng địa phương.

V. T�NH H�NH CH�NH TRỊ -X� HỘI

Nổi bật ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX l� phong tr�o Minh t�n do �ng Gilbert Trần Ch�nh Chiếu v� c�c đồng ch� như Lương Khắc Ninh, Trương Duy Toản... l�nh đạo. Phong tr�o về sau bị thực d�n Ph�p đ�n �p.

Tr�n tuần b�o Lục Tỉnh t�n văn, �ng chủ b�t Gilbert Chiếu thường gọi c�c đồng ch� của m�nh l� �vị Minh t�n� hay �tay Minh t�n� [16]. �ng L� Văn Trung được Lục Tỉnh t�n văn số 27, ng�y 21-5-1908 giới thiệu l� �người Minh t�n�, v� Sơn Nam ghi nhận �ng Trung �về sau n�y l� vị Quyền Gi�o t�ng của Đại đạo Tam kỳ Phổ độ (đạo Cao Đ�i), một t�n gi�o mới tổng hợp Đ�ng T�y th�u h�t đồng b�o Minh t�n l�c trước, khiến thực d�n Ph�p lo ngại.� [17]

Gilbert Trần Ch�nh Chiếu (ảnh t�i liệu)

�ng Phạm C�ng Tắc su�t cũng bị Ph�p bắt trong vụ thất bại của phong tr�o Minh t�n. L�c ấy, phong tr�o tổ chức đưa thanh ni�n ra nước ngo�i học (Đ�ng du), ba chuyến đầu tr�t lọt. �ng Tắc được bố tr� đi chuyến thứ tư. Lần n�y bị lộ, Ph�p ập đến trụ sở Minh t�n C�ng nghệ x�, nhờ �ng Lương Khắc Ninh kịp thủ ti�u hồ sơ v� chứng t�ch n�n kh�ng ai bị bắt.

Do �t nhiều mối li�n hệ giữa c� nh�n hai �ng Trung v� Tắc với phong tr�o y�u nước Minh t�n như vậy, n�n sau n�y kh�ng tr�nh khỏi c� một �t người ngộ nhận, lầm tưởng rằng Cao Đ�i l� �dư �m�, l� �hậu th�n� [sic] của phong tr�o Minh t�n.[18]

Đ� đ�nh c� rất đ�ng t�n đồ buổi đầu khai Đạo cũng l� những người y�u nước chống thực d�n, như Phạm Văn Sơn đ�nh gi�: �Ng�y nay d� sao ch�ng ta cũng kh�ng thể phủ nhận l�ng �i quốc ch�n th�nh của c�c nh� l�nh đạo Cao Đ�i ...� [19] nhưng y�u nước chỉ mới l� một trong nhiều nội dung của gi�o l� Cao Đ�i, v� được đạo Cao Đ�i coi l� một ti�u chuẩn lu�n l� của đạo l�m người (thế đạo hay nh�n đạo). Tuy vậy kh�ng thể đơn thuần chỉ x�t cạnh kh�a n�y rồi cố � đồng h�a đạo Cao Đ�i với c�c phong tr�o ch�nh trị, kh�ng biết v� tư nh�n đạo Cao Đ�i như l� một t�n ngưỡng độc đ�o v� đặc th� của d�n tộc Việt Nam.

T�nh h�nh ch�nh trị ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX v� c�ng phức tạp, gay gắt. C� những biến cố lớn như sau:

- 1903: Phan Bội Ch�u v�o tận Ch�u Đốc để t�m hiểu phong tr�o c�ch mạng ở đ�y.

- 1908: Ph�p đ�n �p phong tr�o Minh t�n.

- 1913: Kỳ ngoại hầu Cường Để v�o Nam Kỳ, lưu lại ba th�ng. Phan X�ch Long xưng l� Ho�ng đế, khởi nghĩa ở v�ng S�i G�n, Chợ Lớn, rồi bị bắt giam ở kh�m Lớn.

- 1914: Thế chiến thứ Nhất b�ng nổ ở ch�u �u.

- 1915: Ph�p bại trận. Ph�t x�t Đức chiếm Paris. c�c phong tr�o y�u nước ở Việt Nam hy vọng c� thể lợi dụng t�nh thế n�y để gi�nh lại độc lập.

- 1916: D�n ch�ng đ�nh kh�m Lớn giải cứu Phan X�ch Long, nhưng thất bại. Mười ba tỉnh của Nam Kỳ cực kỳ x�o trộn v� loạn lạc, Ph�p khủng bố.

- 1920: To�n quyền Maurice Long tổ chức lại Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ, tục gọi l� Hội đồng Quản hạt (Conseil colonial). Đ�y l� nơi tranh gi�nh quyền lợi giữa c�c nh�m tư bản Hoa, Ph�p v� tư sản Nam Kỳ. Sự x�u x� ấy lan ra b�o ch�, chiếm chỗ tr�n c�c tờ b�o như La tribune indig�ne (của B�i Quang Chi�u, Nguyễn Ph� Khai). L�Indochine (của luật sư Morin), La Voix libre (của Ganobsky), La Cloche f�l�e (của Nguyễn An Ninh), L�Echo annamite (của B�i Quang Chi�u, Nguyễn Phan Long).

B�n cạnh đ�, do nghề in ph�t triển, s�ch vở c� nội dung c�ch mạng được lưu h�nh b� mật hay phổ biến c�ng khai.[20]

Trong l�c giới tr� thức Nam Kỳ gần như lạc v�o trận đồ b�t qu�i th� quần ch�ng b�nh d�n thế n�o?

C�c thanh tra ch�nh trị v� h�nh ch�nh của thực d�n b�o động rằng c�c cuộc cầu cơ hỏi chuyện �quốc sự�, n�i sấm ti�n tri thời cuộc đang lan tr�n khắp Lục Tỉnh. C� c�u rằng:

Ngựa lồng quỷmới nhăn răng,

Cha con d�ng họ thầy tăng hết thời.

Người ta đo�n đến một năm Ngọ n�o đ� �thằng T�y� sẽ thua, v� tại một v�ng s�ng nước linh thi�ng n�o đ� sẽ xuất hiện vị cứu tinh của d�n tộc Việt Nam:

Bảo giang thi�n tử xuất,

Bất chiến tự nhi�n th�nh,

Rồi đ�y mới biết th�nh minh,

Mừng đời được l�c hiển vinh reo h�.

Người ta chờ, hy vọng sẽ thấy Minh vương:

Bao giờ Nam Việt thạnh thời,

Minh vương sửa trị ng�i Trời đặt an.

C� lẽ do đức tin đ�, năm 1913, Phan X�ch Long khi khởi nghĩa cho th�u tr�n l� cờ những chữ Nho b� hiểm: Bửu sơn Kỳ hương, v� Th�nh minh Vương phật.

C�n những người an phận, th�ch t�m nơi hoang vắng tu h�nh, chịu khổ hạnh đợi hội Long hoa, chờ Phật vương ra đời.

Kh�ng kh� t�n ngưỡng d�n gian nhuộm khắp Lục Ch�u. Giới tr� thức ở th�nh thị cũng kh�ng k�m. Thanh tra Lalaurette, trong ph�c tr�nh �Le Caoda�sme� đ� dẫn, b�o c�o rằng những năm đầu thập ni�n 20, trong giới c�ng tư chức Nam Kỳ nổi l�n một phong tr�o t�m hiểu v� thực h�nh th�ng c�ng với thế giới si�u h�nh qua s�ch vở chữ Ph�p do hội Th�ng thi�n học truyền b�, với c�c t�c giả như Allan Kardec, Flammarion, Blavatsky, Annie Besant, Olcott ... Một chủ quận hồi ấy cũng ghi nhận: �Une v�ritable vague de spiritisme s�vissait en 1924-1925 dans toute la Cochinchine.� (Một l�n s�ng th�ng linh học lan tr�n khắp Đ�ng Dương những năm 1924-1925.)

Lalaurette cũng cho biết Ph�p đ� t�m đủ mọi c�ch để trấn �p, như �p dụng c�c h�nh phạt nặng, vận dụng điều 144 của H�nh luật, Quyển 6, để sử giảo nạn nh�n, hoặc truy n� theo Nghị định 22-4-1873 của Ph� Đ� đốc Dupr�. Ph�p c�n cho người tr� trộn v�o c�c nơi đ�ng nghi để theo d�i, chỉ điểm, dựa theo những quy định về thu dụng nh�n vi�n ch�m, chế độ trả tiền cho kẻ điềm chỉ ... m� Chuẩn Đ� đốc Lafont ban h�nh ng�y 06-7-1878.

Trong t�nh h�nh như thế, việc cầu cơ vẫn xuất hiện khắp cả ba kỳ, mặc d� phải d� dặt, k�n đ�o; phải tổ chức lẻ tẻ, �t người tham dự. Ở Trung Kỳ, c� nơi gọi đ�n cầu ti�n l� thiện đ�n.[21] Ch�nh c�c đ�n cơ ở khắp nơi như vậy đ� c� �t nhiều li�n hệ với sự xuất thế của đạo Cao Đ�i .

VI. CƠ B�T V� NHỮNG TI�N TRI CAO Đ�I XUẤT THẾ

1. Lời ti�n tri qua cơ b�t

C�c đ�n ti�n tri quy tụ những người hầu đ�n cơ gồm đủ mọi tầng lớp trong x� hội, do nhiều mục đ�ch kh�c nhau. C� thể chia ra ba nh�m ch�nh:

- Nh�m sĩ phu ưu thời mẫn thế, mượn đ�n cơ để hỏi việc thi�n cơ, hầu hết vận mệnh đất nước ra sao. Những đ�n n�y thường lập rất k�n đ�o.

- Nh�m mặc kh�ch tao nh�n, mượn đ�n cơ để xướng họa thi ph� với thần ti�n, di dưỡng t�nh t�nh. Những đ�n n�y thường lập trong �t người đồng thanh kh�.

- Nh�m b�nh d�n, gồm những người cần xin thuốc chữa bịnh, cầu thọ ... Những đ�n n�y phổ biến hơn cả, rất đa dạng. Qua sự linh ứng nh�n tiền, đ�ng đảo d�n ch�ng đ� c� đức tin nơi si�u h�nh. Những đ�n n�y thường chỉ hoạt động trong một thời gian nhất định, tại một địa phương n�o đ�, rồi ngưng hẳn (bế đ�n). Ở Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ XX c� một số đ�n hữu danh thuộc loại n�y, như đ�n Hiệp Minh (ở C�i Khế, tỉnh Cần Thơ), đ�n Minh Thiện (ở Thủ Dầu Một), đ�n Chợ Gạo (tỉnh Chợ Lớn)...

Trong số c�c đ�n ti�n tri sự xuất hiện của đạo Cao Đ�i, c� thể dẫn lại ba trường hợp ti�u biểu như sau:

a. Đ�n tại quận Cao L�nh (1913)

Thứ s�u, ng�y 03-01-1913 (26-11 Qu� Sửu), tại quận Cao L�nh, tỉnh Sa Đ�c, một nh�m sĩ phu lập đ�n tại nh� �ng L� Quang Hiển (nhạc phụ nh� b�o Diệp Văn Kỳ), mục đ�ch hỏi về thi�n cơ, quốc sự. Chơn linh nh� Nho y�u nước Thủ khoa Nguyễn Hữu Hu�n (1841 - 1875) gi�ng cơ ban cho b�i thơ chữ Nho như sau:

Dung tất Cao Đ�i nhiệm khuất th�n,

Tứ tri�m đ�o l� nhứt m�n xu�n.

Canh t�n bồi ức giang sơn cựu,

Trừ cựu thời thi�m tuế nguyệt t�n.

Cửu thập thiều quang sơ b�n lục,

Nhất lu�n minh nguyệt vị tam ph�n.

Thứa nh�n hạc gi� kh�ng trung vụ,

Mục đỗ Cao Đ�i tr�ng ch� th�n.

Ng�i lại ban cho b�i thơ dịch:

Co duỗi Cao Đ�i khoẻ tấm th�n,

Dạo xem đ�o l� đượm m�u xu�n.

Giang sơn chẳng kh�c ng�n năm cũ,

Ng�y th�ng chờ thay một chữ t�n.

Ch�n chục thiều quang vừa nửa s�u,

Một vừng trăng rạng chửa ba ph�n.

Thừa nh�n cưỡi hạc kh�ng trung ruổi,

Chạm mắt Cao Đ�i khoẻ tấm th�n.[22]

Hai chữ Cao Đ�i được nhắc tới bốn lần m� kh�ng ai hiểu ngụ � g�. Gia đ�nh �ng L� Quang Hiển sao lại hai b�i thơ, cất l�n trang thờ l�m kỷ niệm. Cuối năm 1926 (B�nh Dần), khi c�c �ng Cao Quỳnh Cư, Cao Ho�i Sang, L� B� Trang, Vương Quan Kỳ ... trong đợt phổ độ Lục Tỉnh đến tại quận Cao L�nh bấy giờ mọi người mới nhớ lại b�i thơ mười ba năm trước.

L� Quang Hiển (ảnh t�i liệu của Thiện Mộc Lan, Sa Đ�c)

b. Đ�n tại miễu Nổi (1923) v� ch�a Ngọc Ho�ng (1923)

Miễu Nổi kh�ng biết c� từ bao giờ, nằm tr�n một cồn nhỏ rộng khoảng một trăm thước vu�ng, ở giữa s�ng Bến C�t, l� chi nh�nh s�ng B�nh Lợi, quận G� Vấp, tỉnh Gia Định cũ. Trong miễu thờ Tề thi�n Đại th�nh, Ngũ long C�ng ch�a.[23]

Trong một đ�n lập ở miễu Nổi đ�m 17-6 Qu� Hợi (thứ Hai 30-7-1923), một vị trong B�t ti�n l� T�o Quốc Cữu gi�ng cơ khuyến tu, c� đoạn: �Chư nhu c� phước c� duy�n n�n mới gặp Đạo kỳ n�y l� kỳ thứ ba. Thiệt chư nhu c� đại căn mới gặp trước thi�n hạ đ�. Hữu duy�n đắc ngộ Tam kỳ độ, ti�n th�nh đều l�m ph�m m� độ kẻ nguy�n nh�n.� [24]

C�ng năm ấy c�n c� một đ�n cơ ti�n tri kh�c, v�o đ�m 22-7 Qu� Hợi (Chủ nhật 02-9-1923):

Hu� ph�t Tam kỳ Đạo dĩ khai,

Quang minh tứ hướng thướng tam t�i.

Đại phước kim đơn th�n đắc ngộ,

Đế qu�n gi�ng hạ, nhữ v� tai.[25]

B�i thơ qu�n thủ th�nh Hu� Quang Đại đế, l� vị gi�ng đ�n. C�u một n�i �Tam kỳ Đạo dĩ khai� (Đạo kỳ Ba đ� mở rồi) �m chỉ việc �ng Ng� Văn Chi�u đ� học đạo với đức Cao Đ�i trước đ� hai, ba năm (1920-1921). C�u hai n�i �tứ hướng thướng tam t�i� (bốn phương đều k�o cờ ba m�u) ti�n tri từ năm 1926 trở đi khắp nơi sẽ nh�n thấy cờ của đạo Cao Đ�i gồm ba m�u V�ng, Xanh, Đỏ, tượng trưng cho Tam gi�o (Phật, L�o, Nho). C�u ba n�i tới �kim đơn� nhằm ngụ � li�n hệ tới phần nội gi�o t�m truyền (tu thiền hay tịnh luyện) của đạo Cao Đ�i.

Đ�n ti�n tri n�i tr�n tiếp nhận tại ch�a Ngọc Ho�ng. Ch�a n�y nằm tr�n đường Phạm Đăng Hưng, v�ng Đất Hộ (Đa Kao), l�c đầu t�n gọi l� Ngọc Ho�ng điện, tạo t�c trong hai năm 1905-1906. Vị giữ ch�a đầu ti�n l� Lưu Minh, ăn chay trường, tu Minh sư.[26]

Ch�a Ngọc Ho�ng ở Đa Kao (ảnh t�i liệu)

2. Lời ti�n tri trong kinh điển Minh sư

Minh sư l� một t�ng ph�i thờ Tam gi�o, nhưng trọng về L�o, sử dụng cơ b�t, tu đơn (tức thiền đạo L�o). Khởi thuỷ, m�n ph�i n�y quy tụ c�c di thần nh� Minh (Trung Quốc), xuất hiện đầu đời Thanh (cuối thế kỷ XVII). Tổ thứ mười hai của Minh sư l� �ng Trần Thọ Kh�nh c� qua Việt Nam năm Gi�p Ngọ (1894), năm sau tạ thế ở Trung Quốc.[27] Đạo Minh sư l�c đầu nu�i ch� �phản Thanh phục Minh� nhưng với thời gian đ� thay đổi nhiều. Khi được truyền b� ở Việt Nam, Minh sư trở th�nh một m�n ph�i tu h�nh thuần t�y, rất c� uy t�n ở Trung Kỳ v� Nam Kỳ. Ch�a Minh sư được gọi l� Phật đường. Rất nhiều Phật đường l� căn cứ mật của nghĩa qu�n chống Ph�p.

Trước khi đạo Cao Đ�i xuất thế, trong t�n đồ th�ng chữ H�n của Minh sư thường truyền tụng hai c�u m� qu�n thủ l� Cao Đ�i:

Cao như bắc khuyết nh�n chi�m ngưỡng,

Đ�i tại nam phương Đạo thống truyền.

Ở miền Tam Quan, tỉnh B�nh Định, Trung Kỳ, c� ph�i tu Minh sư của một nh� �i quốc l� đạo sĩ Trần Cao V�n (1866-1916). Kinh nhật tụng của ph�i n�y c� hai c�u:

Con cầu Phật tổ Như lai,

Con cầu cho thấu Cao Đ�i Ti�n �ng .

Đợi đến khi Cao Đ�i truyền từ Nam ra Trung, t�n đồ Minh sư mới nghiệm được lời ti�n tri. Lối tu c� cơ b�t, thờ Tam gi�o của Cao Đ�i lại ph� hợp Minh sư n�n c�c l�o sư v� đ�ng đảo t�n đồ đ� mau lẹ nhập m�n, trong sự h�n hoan l� từ đ�y người nước Nam đ� c� đạo của d�n tộc Việt Nam.

Sự xuất hiện của đạo Cao Đ�i ở Việt Nam, khởi nguy�n từ đất Nam Kỳ, đ� diễn ra trong một thời kỳ l�u d�i. Ri�ng về thời kỳ tiềm ẩn, nhằm chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết cho đạo Cao Đ�i ra đời, c� thể ấn định mốc thời gian khởi từ năm Canh Th�n (1920) l� năm lần đầu ti�n vị m�n đồ đầu ti�n của đức Cao Đ�i l� �ng Ng� Văn Chi�u được biết đến hồng danh Cao Đ�i trong một đ�n cơ ở tỉnh T�n An. Khởi từ năm ấy, thời kỳ tiềm ẩn c� thể coi như kết th�c v�o cuối th�ng 8 B�nh Dần (th�ng 9-1926), v� v�o l�c đ�, �ng L� Văn Trung đ� c�ng c�c đồng m�n c�ng bố tuy�n ng�n ch�nh thức về sự ra đời của đạo Cao Đ�i. Tuy�n ng�n n�y thường được gọi đơn giản l� Tờ khai Đạo.

Những sự việc trọng đại xảy ra trong khoảng s�u năm n�y sẽ được tuần tự tr�nh b�y theo diễn tiến thời gian, m� khởi đầu l� sự kiện đức Cao Đ�i ho� độ �ng Ng� Văn Chi�u l�m m�n đệ đầu ti�n của đức Cao Đ�i.

LE� ANH DU�NG

CH� TH�CH

[1] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thi�n địa hội v� cuộc Minh t�n. S�i G�n: Nxb Ph� sa, 1971, tr. VII.

[2] Đại Nam nhất thống ch�. Tập V. Phạm Trọng Điềm dịch. Đ�o Duy Anh hiệu đ�nh. Huế: Nxb Thuận H�a, 1992, 122, 133, 200, 201.

[3] Bulletin de la Soci�t� des �tudes Indochinoises (Nouvelle s�rie, Tome XX). S�i G�n: 1945, p. 16.

[4] Theo Bulletin de la Soci�t� des �tudes Indochinoises (Nouvelle s�rie, Tome XX). S�i G�n: 1945, p. 16-35; v� theo Nguyễn Đ�nh Đầu, �Địa b�n Th�nh phố qua c�c thời kỳ�, in trong Địa ch� văn h�a Th�nh phố. 1988, tr. 485-486. Theo Đ�o Văn Hội, Lịch tr�nh h�nh ch�nh Nam Phần. S�i G�n: 1961, Chương IV, tham biện l� inspection; vi�n chức tr�ng coi inspection gọi l� inspecteur hay r�sident. Về t�n bang biện, xem Paulus Huỳnh Tịnh Của, S�ch quan chế. S�i G�n: Bản in Nh� nước, 1888, tr. 15.

[5] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thi�n địa hội v� cuộc Minh t�n. 1971, tr. 99.

[6] Tỉnh thứ hai mươi hai l� T�n B�nh, gồm một phần tỉnh Gia Định v� Chợ Lớn nhập lại, được lập từ ng�y 11-5-1944.

[7] Để tham khảo, sau đ�y l� một c�ch giải th�ch của Nguyễn Đ�nh Đầu [�Thay lời giới thiệu�, in trong: Pierre Pegneaux de B�haine (B� Đa Lộc Bỉ Nhu), Tự vị An Nam La Tinh. Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuy�n dịch v� giới thiệu. Nxb Trẻ, 1999, tr: 5-6.]:

�Ch�ng ta c� thể t�m tắt: địa danh COCINCINA chia ra l�m hai phần COCIN v� CINA. Cocin nguy�n trước l� Co Ci, do phi�n �m hai tiếng Giao Chỉ m� th�nh (v� thế Tự vị An Nam La Tinh mới dịch Người Giao Chỉ l� Cocincinenses). C�n Cina th� bởi �m Sin hay Ts�inn v� người m�nh đọc l� Tần m� ra. B�n Ấn Độ c� một th�nh phố t�n COCHIN, sợ lẫn với Cochi hay Cochin, n�n phải ghi r� �Giao Chỉ (gần) Tần� v� chữ La Tinh ghi th�nh COCINCINA (m� người Nhật hay Trung Hoa ghi ra Giao Chỉ Chi Na). Tr�n c�c bản đồ T�y phương vẽ Đ�ng Nam �, từ trước cho tới thế kỷ XVII, đều ghi tr�n địa phận nước ta t�n COCINCINA, CAUCHINCHINA, COCHINCHINA, COCHINCHINE hoặc dạng tự n�o đại kh�i như thế để n�i l�n đ� l� xứ GIAO CHỈ GẦN NƯỚC TẦN. Do đ�, ta c� thể đo�n địa danh ấy đ� xuất hiện từ khi nước ta gọi l� quận Giao Chỉ bị nh� Tần đ� hộ.

�Từ đầu thế kỷ XVII, hai họ Trịnh-Nguyễn tranh gi�nh quyền lực, ph�n chia nước ta th�nh hai v�ng cai trị Đ�ng Trong v� Đ�ng Ngo�i, lấy s�ng Gianh l�m ranh giới ph�n ly. Tr�n bản đồ cũng như trong văn kiện, người T�y phương gọi Đ�ng Ngo�i l� TUNQUYN (hoặc nhiều dạng tương tự như TUMQUYN, TUNKIN, TONGKING, TONKIN...) tức lấy t�n thủ đ� Đ�NG KINH để gọi bao qu�t cả Đ�ng Ngo�i. C�n Đ�ng Trong th� họ vẫn d�ng t�n cũ COCINCINA m� gọi. Đ�ng Trong dưới thời Đắc Lộ (Từ điển Việt-Bồ-La) rộng từ s�ng Gianh tới n�i Đ� Bia ở dinh Ph� Y�n. Tr�n một thế kỷ sau � thời của Bỉ Nhu với Tự vị An Nam La Tinh �, địa danh COCINCINA lại chỉ th�m phần đất phương nam rất rộng lớn. Phần Nam Bộ xưa được mệnh danh l� xứ Đồng Nai. Năm 1698, xứ Đồng Nai được thiết lập phủ huyện. Phủ GIA ĐỊNH tồn tại suốt từ đ� đến năm 1800 v� bao gồm to�n thể đất Nam Bộ. (...) Lại từ sau 1885, khi Ph�p đ� chiếm hết Việt Nam, Ph�p chia cắt nước ta th�nh ba kh�c v� mệnh danh:

TONKIN l� BẮC KỲ

ANNAM l� TRUNG KỲ

COCHINCHINE l� NAM KỲ

�Cả ba địa danh Đ�ng Kinh, An Nam, Giao Chỉ (gần) Tần đ� bị T�y ngữ h�a v� đặt t�n cho những phần đất chẳng ăn nhằm g� với � nghĩa của nguy�n ngữ.�

LAD n�i th�m: COCHIN m� Nguyễn Đ�nh Đầu n�i tới l� một cảng tr�n bờ biển Malabar ở t�y nam Ấn Độ, l� nơi người phương T�y đặt ch�n l�n nước Ấn trước ti�n. Cảng bị thực d�n Bồ Đ�o Nha chiếm từ năm 1502.

[8] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thi�n địa hội v� cuộc Minh t�n. 1971, tr. XII.

Sơn Nam, Bến Ngh� xưa. Nxb Văn nghệ, 1981, tr. 150-151.

[9] Sơn Nam, Đất Gia Định xưa. 1984, tr. 175.

[10] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thi�n địa hội v� cuộc Minh t�n. 1971, tr. 45.

[11] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thi�n địa hội v� cuộc Minh t�n. 1971, tr. VI.

[12] Sơn Nam, Đất Gia Định xưa, 1984, tr. 157.

[13] Sơn Nam, Bến Ngh� xưa, 1981, tr. 140.

[14] Sơn Nam, Bến Ngh� xưa, 1981, tr. 158.

[15] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thi�n địa hội v� cuộc Minh t�n. 1971, tr. 135-146.

[16] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thi�n địa hội v� cuộc Minh t�n. 1971, tr. 140.

[17] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thi�n địa hội v� cuộc Minh t�n. 1971, tr. 148.

[18] Sơn Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX: Thi�n địa hội v� cuộc Minh t�n. 1971, tr. 142.

[19] Phạm Văn Sơn, Chế độ Ph�p thuộc ở Việt Nam. S�i G�n: 1972, tr. 178.

[20] Phạm Văn Sơn, Chế độ Ph�p thuộc ở Việt Nam. 1972, tr. 59-60.

[21] Cao Xu�n Huy, �Lao tzu�s philosophy and Confucius scholars�, Vietnamese studies, No. 56. H� Nội: 1979, p. 29.

[22] Huệ Lương, Đại đạo Tam kỳ Phổ độ (Cao Đ�i gi�o) sơ giải. S�i G�n: Nxb Thanh hương T�ng thơ, 1963, tr. 27.

[23] Huỳnh Minh, Gia Định xưa v� nay. S�i G�n: 1973, tr. 203.

[24] Nguyễn Trung Hậu, Đại đạo căn nguy�n. S�i G�n: 1957, tr. 9.

[25] Nguyễn Trung Hậu, Đại đạo căn nguy�n. 1957, tr. 9.

[26] Vương Hồng Sển, S�i G�n năm xưa. S�i G�n: Nxb Khai tr�, 1969, tr. 198.

[27] Sơn Nam, C� t�nh của miền Nam. S�i G�n: Nxb Đ�ng phố, 1974, tr. 108.

*

HẾT CHƯƠNG I

C�ng một t�c giả L� Anh Dũng

Đ�i d�ng sơ lược về t�c giả L� Anh Dũng

Thi�n-L� Bửu-T�a, 12695 Sycamore Ave, San Martin, CA 95046 - USA. Tel: (408) 683-0674

Website: www.thienlybuutoa.org� �� Email �� Sơ đồ hướng dẫn tới TLBT

Th�ng bạch in Kinh